Các loại bệnh của cá phát triển mạnh nhất vào mùa xuân và đầu hè, do đó phải có biện pháp dùng thuốc phòng ngừa dịch bệnh nhằm hạn chế tổn thất.
Dùng thuốc phòng trước mùa bệnh
Trước mùa phát sinh bệnh dùng thuốc rắc khắp ao để phòng chống thường đạt kết quả tốt. Ngoài ra, còn có thể treo túi thuốc xung quanh nơi cho ăn, hình thành một vùng khử trùng các sinh vật gây bệnh.
Để đạt hiệu quả cao cần chú ý: Nồng độ thuốc xung quanh nơi cá ăn vừa phải, nếu quá cao cá sẽ không đến ăn. Nồng độ quá thấp cá đến ăn nhưng không tiêu diệt được sinh vật gây bệnh. Với cá không thể cưỡng bức nên trộn vào thức ăn để cho ăn tuỳ theo yêu cầu phòng ngừa từng loại bệnh mà tính số lượng thuốc. Số lần cho ăn và chọn loại thuốc nào cho thích hợp để có hiệu quả cao.
Dùng thuốc để phòng ngừa các bệnh bên trong cơ thể cần lưu ý: Thức ăn nên chọn loại cá thích ăn, nghiền thành bột trộn thuốc vào, tuỳ theo tính ăn của cá mà chế tạo loại thức ăn nổi hay chìm. Độ dính thích hợp, nếu ăn thức ăn ít độ dính, thuốc vào nước sẽ tan ngay nhưng độ dính quá cao, thức ăn vào ruột chỉ dừng lại thời gian ngắn, thuốc chưa kịp hấp thu đã bài tiết ra ngoài, đều không có hiệu quả. Kích thước thức ăn lớn nhỏ theo cỡ miệng bắt mồi của cá. Cho ăn số lượng ít hơn bình thường để ngày nào hết ngày đó sau đó tăng dần, nhất là cá bị bệnh đường ruột.
Trước mùa phát sinh bệnh dùng thuốc rắc khắp ao để phòng chống thường đạt kết quả tốt. Ngoài ra, còn có thể treo túi thuốc xung quanh nơi cho ăn, hình thành một vùng khử trùng các sinh vật gây bệnh.
Để đạt hiệu quả cao cần chú ý: Nồng độ thuốc xung quanh nơi cá ăn vừa phải, nếu quá cao cá sẽ không đến ăn. Nồng độ quá thấp cá đến ăn nhưng không tiêu diệt được sinh vật gây bệnh. Với cá không thể cưỡng bức nên trộn vào thức ăn để cho ăn tuỳ theo yêu cầu phòng ngừa từng loại bệnh mà tính số lượng thuốc. Số lần cho ăn và chọn loại thuốc nào cho thích hợp để có hiệu quả cao.
Dùng thuốc để phòng ngừa các bệnh bên trong cơ thể cần lưu ý: Thức ăn nên chọn loại cá thích ăn, nghiền thành bột trộn thuốc vào, tuỳ theo tính ăn của cá mà chế tạo loại thức ăn nổi hay chìm. Độ dính thích hợp, nếu ăn thức ăn ít độ dính, thuốc vào nước sẽ tan ngay nhưng độ dính quá cao, thức ăn vào ruột chỉ dừng lại thời gian ngắn, thuốc chưa kịp hấp thu đã bài tiết ra ngoài, đều không có hiệu quả. Kích thước thức ăn lớn nhỏ theo cỡ miệng bắt mồi của cá. Cho ăn số lượng ít hơn bình thường để ngày nào hết ngày đó sau đó tăng dần, nhất là cá bị bệnh đường ruột.

Cho cá ăn theo phương pháp "4 định"
Định chất lượng thức ăn: Thức ăn dùng cho cá ăn phải tươi, sạch sẽ không bị mốc meo, ôi thối, không có mầm bệnh và độc tố. Thành phần dinh dưỡng thích hợp đối với yêu cầu phát triển cơ thể cá trong các giai đoạn.
Định số lượng thức ăn: Dựa vào trọng lượng cá để tính lượng thức ăn, thường sau khi cho ăn từ 3 - 4 giờ cá ăn hết là lượng vừa phải. Cá ăn thừa nên vớt bỏ đi để tránh hiện tượng thức ăn phân huỷ làm ô nhiễm môi trường sống.
Định vị trí để cho ăn: Muốn cho cá ăn một nơi cố định cần tập cho cá có thói quen đến ăn tập trung tại một điểm nhất định. Cho cá ăn theo vị trí vừa tránh lãng phí thức ăn lại quan sát các hoạt động bắt mồi và trạng thái sinh lý sinh thái của cơ thể cá.
Ngoài ra để phòng bệnh cho cá trước các mùa vụ phát sinh bệnh có thể treo các túi thuốc ở nơi cá đến ăn, có thể tiêu diệt nguồn gốc gây bệnh.
Định thời gian cho ăn: Hàng ngày cho cá ăn 2 lần. Nuôi cá thâm canh, mật độ dày nên cho ăn nhiều lần hơn nhưng số lượng ít đi. Các cơ sở nuôi cá thường dùng phân hữu cơ bón xuống thuỷ vực bổ sung chất dinh dưỡng để cho sinh vật phù du phát triển cung cấp nguồn thức ăn tự nhiên cho cá.
Thường xuyên chăm sóc quản lý: Hàng ngày nên có chế độ thăm ao theo dõi hoạt động của cá để kịp thời phát hiện bệnh và xử lý ngay không cho bệnh phát triển và kéo dài. Cần quan sát biến đổi chất nước, bổ sung nguồn nước mới đảm bảo đầy đủ oxy và hạn chế các chất độc.
Để tạo môi trường cá sống sạch sẽ cần dọn sạch cỏ tạp, ngăn chặn và tiêu diệt địch hại, vật chủ trung gian, vớt bỏ xác sinh vật và cá chết, các thức ăn thừa, tiêu độc nơi cá đến ăn để hạn chế sinh vật gây bệnh sinh sản và lây truyền bệnh.
Định chất lượng thức ăn: Thức ăn dùng cho cá ăn phải tươi, sạch sẽ không bị mốc meo, ôi thối, không có mầm bệnh và độc tố. Thành phần dinh dưỡng thích hợp đối với yêu cầu phát triển cơ thể cá trong các giai đoạn.
Định số lượng thức ăn: Dựa vào trọng lượng cá để tính lượng thức ăn, thường sau khi cho ăn từ 3 - 4 giờ cá ăn hết là lượng vừa phải. Cá ăn thừa nên vớt bỏ đi để tránh hiện tượng thức ăn phân huỷ làm ô nhiễm môi trường sống.
Định vị trí để cho ăn: Muốn cho cá ăn một nơi cố định cần tập cho cá có thói quen đến ăn tập trung tại một điểm nhất định. Cho cá ăn theo vị trí vừa tránh lãng phí thức ăn lại quan sát các hoạt động bắt mồi và trạng thái sinh lý sinh thái của cơ thể cá.
Ngoài ra để phòng bệnh cho cá trước các mùa vụ phát sinh bệnh có thể treo các túi thuốc ở nơi cá đến ăn, có thể tiêu diệt nguồn gốc gây bệnh.
Định thời gian cho ăn: Hàng ngày cho cá ăn 2 lần. Nuôi cá thâm canh, mật độ dày nên cho ăn nhiều lần hơn nhưng số lượng ít đi. Các cơ sở nuôi cá thường dùng phân hữu cơ bón xuống thuỷ vực bổ sung chất dinh dưỡng để cho sinh vật phù du phát triển cung cấp nguồn thức ăn tự nhiên cho cá.
Thường xuyên chăm sóc quản lý: Hàng ngày nên có chế độ thăm ao theo dõi hoạt động của cá để kịp thời phát hiện bệnh và xử lý ngay không cho bệnh phát triển và kéo dài. Cần quan sát biến đổi chất nước, bổ sung nguồn nước mới đảm bảo đầy đủ oxy và hạn chế các chất độc.
Để tạo môi trường cá sống sạch sẽ cần dọn sạch cỏ tạp, ngăn chặn và tiêu diệt địch hại, vật chủ trung gian, vớt bỏ xác sinh vật và cá chết, các thức ăn thừa, tiêu độc nơi cá đến ăn để hạn chế sinh vật gây bệnh sinh sản và lây truyền bệnh.

Những bệnh thường gặp ở cá nuôi
Hội chứng dịch bệnh lở loét ở cá: Cá ít ăn hoặc bỏ ăn, hoạt động lờ đờ, bơi nhô đầu lên mặt nước. Da đen xẫm, có vết mòn màu xám hoặc các đốm đỏ trên đầu, thân, các vây và đuôi. Vết loét lan rộng, vẩy rụng, xuất huyết và viêm. Giải phẫu các cơ quan nội tạng hầu như không biến đổi.
Phòng trị bệnh: Cải tạo và vệ sinh môi trường tốt. Ngăn chặn không cho dịch bệnh lây lan. Dùng Formalin, CuSO4, kháng sinh..
Bệnh nấm thuỷ mi: Trên da xuất hiện các vùng trắng xám. Nấm phát triển như đám bông. Trứng có màu trắng đục xung quanh có sợi nấm. Tất cả động vật thuỷ sản đều bị nấm ký sinh vào mùa xuân, thu, đông.
Phòng trị bệnh bằng cách làm sạch môi trường nuôi.
Bệnh trùng bào tử sợi: Triệu chứng cá gầy yếu dị hình. Da, mang có nhiều bào nang. Kênh nắp mang. Gây tác hại lớn ở giai đoạn cá giống (chép, trôi, mè). Bệnh thường xuất hiện vào cuối xuân đầu hè.
Chỉ có phòng trị bệnh bằng cách tiêu diệt mầm bệnh trước khi nuôi, nuôi cá phát triển nhanh qua giai đoạn dễ bị bệnh bởi vì chưa có thuốc phòng trị đặc hiệu.
Bệnh trùng bánh xe: Dấu hiệu là thân có nhiều nhớt màu trắng đục, mang bạc trắng, cá ngứa ngáy bơi lội lung tung. Gây tác hại lớn ở giai đoạn cá giống của tất cả các loài cá nuôi. Bệnh xuất hiện vào mùa xuân và mùa thu.
Phòng trị bệnh bằng cách tắm nước muối. Tắm hoặc phun sun phát đồng, xanh malachite…
Hội chứng dịch bệnh lở loét ở cá: Cá ít ăn hoặc bỏ ăn, hoạt động lờ đờ, bơi nhô đầu lên mặt nước. Da đen xẫm, có vết mòn màu xám hoặc các đốm đỏ trên đầu, thân, các vây và đuôi. Vết loét lan rộng, vẩy rụng, xuất huyết và viêm. Giải phẫu các cơ quan nội tạng hầu như không biến đổi.
Phòng trị bệnh: Cải tạo và vệ sinh môi trường tốt. Ngăn chặn không cho dịch bệnh lây lan. Dùng Formalin, CuSO4, kháng sinh..
Bệnh nấm thuỷ mi: Trên da xuất hiện các vùng trắng xám. Nấm phát triển như đám bông. Trứng có màu trắng đục xung quanh có sợi nấm. Tất cả động vật thuỷ sản đều bị nấm ký sinh vào mùa xuân, thu, đông.
Phòng trị bệnh bằng cách làm sạch môi trường nuôi.
Bệnh trùng bào tử sợi: Triệu chứng cá gầy yếu dị hình. Da, mang có nhiều bào nang. Kênh nắp mang. Gây tác hại lớn ở giai đoạn cá giống (chép, trôi, mè). Bệnh thường xuất hiện vào cuối xuân đầu hè.
Chỉ có phòng trị bệnh bằng cách tiêu diệt mầm bệnh trước khi nuôi, nuôi cá phát triển nhanh qua giai đoạn dễ bị bệnh bởi vì chưa có thuốc phòng trị đặc hiệu.
Bệnh trùng bánh xe: Dấu hiệu là thân có nhiều nhớt màu trắng đục, mang bạc trắng, cá ngứa ngáy bơi lội lung tung. Gây tác hại lớn ở giai đoạn cá giống của tất cả các loài cá nuôi. Bệnh xuất hiện vào mùa xuân và mùa thu.
Phòng trị bệnh bằng cách tắm nước muối. Tắm hoặc phun sun phát đồng, xanh malachite…
Tác giả bài viết: Sưu tầm
Nguồn tin: Báo Nông Nghiệp Việt Nam
Nguồn tin: Báo Nông Nghiệp Việt Nam
Từ khóa:
Những tin mới hơn
- Triển vọng mới từ mô hình “Nuôi dê lai Bách Thảo sinh sản” (04/03/2016)
- Tăng vọt tình trạng sử dụng kháng sinh bừa bãi (04/03/2016)
- Quản lý và nuôi vịt trên cạn hiệu quả (07/03/2016)
- Nuôi gia cầm trong mùa nóng - nghiên cứu mới (07/03/2016)
- Nuôi gà trên đệm lót sinh học (03/03/2016)
- Phụng Hiệp (Hậu Giang): Giá gà thịt tăng 10.000-15.000 đồng/kg (25/02/2016)
- Hướng dẫn biện pháp chống đói rét cho gia súc, gia cầm và thủy sản (26/01/2016)
- Hơn 9.000 con trâu, bò bị chết do thời tiết rét đậm, rét hại (01/02/2016)
- Công thức khẩu phần ăn nuôi gà (24/02/2016)
- Biện pháp phòng chống rét cho trâu bò (25/01/2016)
Những tin cũ hơn
- Các bước xử lý khi heo nái đẻ (13/01/2016)
- Thụ tinh nhân tạo cho lợn (12/01/2016)
- Triệu phú “Bò” (06/01/2016)
- Hiệu quả kép từ chăn nuôi lợn theo quy trình VietGap (06/01/2016)
- Trại gà rừng 1 triệu USD: Bậc nhất Việt Nam (04/01/2016)
- Những kiểu chăn nuôi độc đáo của nông dân Việt Nam (24/12/2015)
- Trợ lực kịp thời cho chăn nuôi nông hộ (24/12/2015)
- Nuôi gà ta thả vườn kiếm tiền tỷ (21/12/2015)
- Kỹ thuật nuôi bồ câu gà cho năng suất cao (17/12/2015)
- Kỹ thuật làm đệm lót lên men trong chăn nuôi lợn (15/12/2015)
TIN MỚI
Thăm dò ý kiến
VIDEO MỚI
Bộ đếm
- Đang truy cập: 15
- Hôm nay: 1532
- Tháng hiện tại: 64729
- Tổng lượt truy cập: 8738848
Ý kiến bạn đọc